Các chứng chỉ lưu ký (Depositary Receipts – DRs) bao gồm ADRs, GDRs và Euro DRs, thường là loại chứng khoán của các công ty ngoài nước Mỹ và châu Âu, được giao dịch tại TTCK Mỹ hoặc châu Âu như Sở GDCK New York (NYSE), Sở GDCK London (LSE). DRs thường được phát hành bằng USD, nhưng cũng có thể được phát hành bằng đồng Euro.
Posts Tagged ‘luật sư chứng khoán’
Chứng chỉ lưu ký và chứng chỉ lưu ký toàn cầu
05/04/2013Chiến lược “mượn xác” của nhà đầu tư ngoại
26/03/2013Gần đây, nếu để ý sẽ thấy một số doanh nghiệp tại Việt Nam, sau khi được nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần chi phối, thì sự hiện diện của họ trở nên mờ nhạt hơn so với trước đó. Điểm dễ thấy nhất là hoạt động kinh doanh đi theo chiều hướng xấu hơn hay các hoạt động quảng bá sản phẩm đã không còn được chăm chút kỹ nữa. Phải chăng khi mua doanh nghiệp Việt, không ít nhà đầu tư ngoại chỉ quan tâm đến phần xác là hệ thống phân phối, chi nhánh, đại lý…; phần hồn là sản phẩm và thương hiệu không phải là đích nhắm của họ?
Kinh doanh lỗ lã, thương hiệu mờ nhạt
Chuyện hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đi xuống sau mua bán và sáp nhập không phải là hiếm. Một ví dụ là Công ty Thực phẩm Quốc tế (IFS). IFS là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, được Trade Ocean Holdings Sdn Bhd (Malaysia) thành lập vào năm 1991. Đến năm 2006, IFS niêm yết 23% vốn tại Sàn Giao dịch TP.HCM (HoSE).
Hồi đầu năm 2011, Kirin, tập đoàn thực phẩm hàng đầu của Nhật, đã mua lại 57% vốn từ các thành viên sáng lập và mua tiếp 23% cổ phiếu niêm yết nữa sau đó. Đến nay, Kirin sở hữu 80% vốn IFS. Sau 2 năm về dưới trướng của Kirin, tình hình kinh doanh của IFS vẫn không có triển vọng gì sáng sủa. Điều khiến nhà đầu tư băn khoăn là không phải IFS không có điều kiện để tạo ra lợi nhuận.
Về mặt thương hiệu, Wonderfarm là cái tên đã rất quen thuộc trên thị trường. Ngoài dòng sản phẩm chủ lực là nước yến và trà bí đao, IFS liên tục giới thiệu nhiều nhóm sản phẩm mới khác như nước dừa (thực phẩm chế biến), nước xá xị (có gas), nước trái cây (10 loại), 4 nhóm bánh (23 loại) và trà xanh Wonderfarm. Về lợi thế kinh doanh, IFS sở hữu hệ thống phân phối đến 110.000 điểm bán hàng. IFS cũng được công ty mẹ Kirin cho vay vốn với lãi suất 0% năm 2011 và 1,7% năm 2012 (USD). Điều này đã giúp giảm đáng kể chi phí lãi vay của Công ty qua các năm.
Mặc dù có nhiều lợi thế cạnh tranh nhưng IFS vẫn báo lỗ 2 năm liên tiếp. Nếu đặt hoạt động kinh doanh của IFS trong bối cảnh nhóm ngành nước giải khát, kết quả kinh doanh này cũng không tương xứng. Theo Công ty Truyền thông Tài chính StoxPlus, tỉ suất lợi nhuận của nhóm ngành nước giải khát đạt xấp xỉ 20% trong năm 2012.
Lần giở báo cáo tài chính của IFS lại thấy giá vốn hàng bán, chi phí quản lý và chi phí tài chính liên tục giảm từ năm 2010. Tuy nhiên, chi phí bán hàng và chi phí khác tăng mạnh, khiến IFS lỗ lớn. Ở điểm này lại phát sinh một khúc mắc khác. Chẳng hạn, trong quý IV/2012, IFS thuyết minh chi phí hoa hồng chiếm đến 50% tổng chi phí. Nhưng theo lẽ thường, hoa hồng cho đại lý và nhà phân phối tăng nghĩa là doanh nghiệp bán được hàng và doanh thu tăng. Vậy mà doanh thu của IFS cứ liên tục giảm kể từ năm 2010 đến nay.
Một chuyện khó hiểu nữa là IFS quyết định thanh lý tài sản không sử dụng trong năm 2012 có giá trị hơn 45 tỉ đồng, làm phát sinh chi phí khác. Nhưng giá trị thanh lý lại không được ghi nhận vào mục thu nhập khác.
Đi đường vòng
Theo IFS, nguyên nhân lỗ lớn liên tục 2 năm qua là chi phí tăng mạnh, nhất là chi phí bán hàng vượt cả lợi nhuận bán hàng. Tuy nhiên, một chuyên gia có kinh nghiệm lâu năm trong ngành thực phẩm tiêu dùng (không muốn nêu tên) cho rằng giải thích này vẫn chưa đủ sức thuyết phục nhà đầu tư. Đi tìm lý do thực sự đằng sau các khoản lỗ lớn này cũng không phải là điều dễ dàng.
IFS từng là doanh nghiệp bị phạt và truy thu thuế (giai đoạn 2007 – 2009) gần 12 tỉ đồng. Cùng với quyết định hủy niêm yết trong năm 2013, IFS có khả năng đang nằm trong diện nghi vấn chuyển giá. Năng lực quản lý của một tập đoàn thực phẩm đa quốc gia như Kirin với hệ thống phân phối rộng lớn của IFS lại không thể tạo ra lợi nhuận là cơ sở cho sự hoài nghi này.
Vị chuyên gia trên cho rằng, khả năng rất lớn là Kirin đang chuyển hệ thống phân phối các sản phẩm của IFS sang cho mình. Theo đó, các sản phẩm mang thương hiệu Wonderfarm sẽ không còn được ưu tiên như trước. Về lâu dài, sản phẩm thương hiệu Wonderfarm sẽ dần biến mất và được thay thế bằng thương hiệu Kirin.
Nhưng tại sao Kirin lại không muốn giữ thương hiệu Wonderfarm? Mấu chốt vấn đề nằm ở sản phẩm chính của Kirin. Theo thông tin Kirin Holdings công bố trên website, sản phẩm chính của họ là các thức uống có cồn và riêng sản phẩm bia, Kirin đã có thị phần đứng đầu ở Nhật. Tập đoàn này cũng có một vài loại thức uống không cồn khác nhưng không đáng kể. Trước mắt, họ có thể giữ lại những thương hiệu lâu đời của IFS song hành với các sản phẩm mới do họ đưa vào. Nhưng về lâu dài, các sản phẩm với chất lượng quốc tế của họ với sức cạnh tranh cao có thể sẽ lấn lướt các sản phẩm của IFS trong hệ thống phân phối có sẵn của doanh nghiệp này.
Từ những ngày đầu mua IFS, Kirin cũng thừa nhận, nhà đầu tư mới phải mất ít nhất 5 năm để chiếm lĩnh thị trường Việt Nam nếu chỉ bằng tự lực. Do đó, Kirin chấp nhận đi đường vòng như một số thương hiệu nước ngoài để rút ngắn thời gian.
Việc sản phẩm mang thương hiệu trong nước được doanh nghiệp nước ngoài mua và dần biến mất đã xảy ra không ít lần ở Việt Nam. Bibica cũng đang đối mặt với áp lực này. Tuy nhiên, Bibica có dòng sản phẩm tương đồng với đối thủ nước ngoài nên quá trình thay thế sẽ kéo dài. Hay lúc Unilever mua P/S thì thương hiệu này đang chiếm lĩnh thị trường trong nước nên đã được giữ lại. “Đằng này, sản phẩm nước giải khát của IFS lại không phải là mục tiêu Kirin quan tâm nên quá trình thay thế chắc chắn sẽ diễn ra khốc liệt hơn”, vị chuyên gia nói trên nhận xét.
Theo NCĐT
Tăng tốc IPO, thị trường liệu có bội thực cổ phiếu?
18/03/2013Trong năm 2013, dự kiến có ít nhất 7 tổng công ty hoàn thành cổ phần hóa và sẽ lên sàn chứng khoán.
Định nghĩa lại về hội đồng quản trị
10/03/2013Khi đã cổ phần hóa, DN nào cũng phải lập ra hội đồng quản trị (HĐQT). Tuy nhiên, HĐQT đó hoạt động hiệu quả không lại là chuyện khác.
Với mong muốn góp sức giúp DN tổ chức được một HĐQT hiệu quả, ngày 7/3/2012, VietNam Holding đã tổ chức hội thảo mang chủ đề này. Trong bài thuyết trình của mình, Giáo sư Tomas Casas Klett của Trường Quản lý Skolkove Moscow, đồng thời là lãnh đạo cao cấp thuộc Đại học St. Gallen (Thụy Sỹ) lưu ý lại định nghĩa về HĐQT. Theo đó, HĐQT là một hệ thống quản lý và định hướng nhằm thúc đẩy hoạt động lâu dài của DN trong một thị trường minh bạch, có sự tham gia của các cổ đông.
Từ định nghĩa này, Giáo sư Tomas Casas Klett đã chỉ ra 2 mô hình quản trị doanh nghiệp (QTDN) được sử dụng hiện nay: mô hình các nước Anglo Saxon (xoay quanh cổ đông, dựa trên thị trường và pháp luật, linh hoạt, áp dụng rộng rãi ở Mỹ, Anh) và mô hình các nước châu Âu (xoay quanh các bên liên quan, điển hình tại Đức, Nhật). Tuy nhiên, những nước đang phát triển như Brazil, Chile… đã tìm cách tổ chức HĐQT theo mô hình trung gian.
Dù tổ chức HĐQT theo mô hình nào thì theo Giáo sư Tomas Casas Klett, vẫn có những vấn đề mà mỗi DN cần lưu ý giải quyết. Đó là mâu thuẫn lợi ích giữa cổ đông với các thành viên quản lý của DN, giữa cổ đông với cổ đông. Nếu DN không có cơ chế giải quyết tốt, quyền cổ đông sẽ không được bảo vệ, rủi ro DN bị thâu tóm sẽ tăng… Chưa kể, QTDN kém hiệu quả, chi phí quản lý DN và chi phí vốn sẽ tăng, chiến lược của DN sẽ kém giá trị, tài sản DN sụt giảm.
Nhiều nghiên cứu chỉ ra, ở các DN Nga và cả Mỹ, QTDN hiệu quả đôi khi không liên quan mật thiết với kinh doanh. Nhưng người ta lại thấy, khi DN tổ chức được HĐQT hiệu quả, DN tránh được những sai lầm từ các quyết định đầu tư, đặc biệt là trong các thương vụ M&A.
HĐQT của DN Việt Nam yếu
Với DN Việt Nam, ông Nguyễn Đình Cung, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho rằng, hoạt động HĐQT có nhiều đặc thù riêng và vẫn còn nhiều điểm yếu.
Điểm yếu đầu tiên là DN vẫn chưa nhận thức đúng về vai trò của các thành viên HĐQT. Nhiều DN vẫn cho rằng, HĐQT phải tập trung làm ra tiền. Trong khi bản chất của HĐQT là phải nhìn ra các cơ hội đem lại tiền cho DN chứ không phải làm ra tiền.
Vì nhìn nhận sai nên HĐQT ở nhiều DN Việt Nam vẫn thiên về điều hành hơn là suy nghĩ chiến lược. Chưa kể, nguy cơ lạm dụng quyền lực trong HĐQT ở DN Việt Nam vẫn lớn, nhất là khi các thành viên này nắm tỷ lệ cổ phần lớn. Đã có không ít DN mà quyền lực tập trung vào tay một số người.
Yếu điểm nữa ở HĐQT là ban kiểm soát (BKS) lập ra ở DN mang tính hình thức hơn là theo dõi, đánh giá các hoạt động của HĐQT. Đa số thành viên BKS là bạn bè thân hữu của cổ đông lớn, thiếu năng lực, thiếu vị trí, thiếu công cụ và động lực để thực hiện vai trò giám sát, buộc HĐQT phải nâng cao năng lực.
Mâu thuẫn, tranh chấp trong HĐQT vẫn thường xuyên xảy ra. Trong đó, tranh chấp giữa chủ tịch và tổng giám đốc là quyết liệt nhất. Ông Cung nhận định, mâu thuẫn này có nguyên cớ từ chỗ xã hội vẫn còn đề cao, quý trọng tổng giám đốc hơn là chủ tịch dù chủ tịch có nhiều quyền nhiều lợi.
Giải pháp nào để xây dựng HĐQT hiệu quả?
Tại Hội thảo, ông Nguyễn Đình Cung đã đề xuất một số giải pháp cơ bản. Đó là DN cần nhận thức lại vị trí, vai trò của HĐQT. Chủ tịch HĐQT phải là người luôn suy nghĩ, tìm kiếm, tư duy và nghĩ ra các cách có thể giúp DN kiếm tiền. Và mọi cơ chế trong DN cần khuyến khích chủ tịch cũng như thành viên HĐQT luôn sáng tạo, tìm ra các cơ hội trong kinh doanh. Chủ tịch và các thành viên HĐQT cần được đào tạo kỹ năng trao đổi chất vấn,chia sẻ, giúp nâng cao phương thức hoạt động của chủ tịch.
Thay đổi cần thiết khác là DN phải xem hoạt động giám sát là một đòi hỏi tất yếu, tạo ra giá trị cho DN, giúp DN phát triển bền vững. Muốn thế, DN phải tạo cơ chế để BKS hoạt động độc lập, thành viên BKS là người có khả năng và mỗi ý kiến đều được tôn trọng.
DN cũng cần thay đổi điều lệ theo đúng bản chất hơn hình thức. Đó là đưa ra nhiều cách thức để cổ đông/NĐT có nhiều lựa chọn trong bầu chọn thành viên HĐQT cũng như mạnh dạn trong góp ý cho HĐQT.
Ngoài ra, theo luật sư Nguyễn Ngọc Bích, Giám đốc Công ty Luật Kinh doanh Việt, DN cần những thành viên HĐQT độc lập. Họ phải thực sự độc lập và có uy tín mới có thể giúp DN có những quyết định sáng suốt, khách quan.
Sách mới: Chiến thắng con quỷ trong bạn
07/03/2013Napoleon Hill là tác giả dòng sách phát triển bản thân nổi tiếng nhất mọi thời đại, tác giả của những cuốn sách ăn khách như: Think and Grow Rich – 13 nguyên tắc nghĩ giàu, làm giàu; Law of Success; Kế hoạch làm giàu 365 ngày; Làm giàu (Grow Rich! With Peace of Mind)… Nếu cuốn sách Think and Grow Rich – 13 nguyên tắc nghĩ giàu, làm giàu là tấm bản đồ giúp bạn tìm đến thành công thì Chiến thắng Con Quỷ trong bạn sẽ giúp bạn vượt qua những rào cản ngăn bạn đến với thành công.
Cuốn sách là cuộc trò chuyện của Napoleon Hill và Con Quỷ. Sau bao nhiêu năm miệt mài nghiên cứu cuối cùng ông cũng phát hiện ra Con Quỷ, bắt nó phải thú tội và tiết lộ những sự thật kinh hoàng về nơi nó sống, cách nó kiểm soát tâm trí con người và cách để con người chiến thắng được nó. Khi đọc cuốn sách này, có thể bạn sẽ tự hỏi, cuộc trò chuyện này có thật không? Con Quỷ là có thật hay là một sản phẩm của trí tưởng tượng của Napoleon Hill. Nhưng quyền lựa chọn cách hiểu vấn đề là của bạn. Bởi lẽ cuối cùng, thông qua cuộc trò chuyện với Con Quỷ, Napoleon Hill đã cung cấp cho chúng ta chìa khóa để chiến thắng Con Quỷ trong cuộc sống riêng của mỗi người.
Hãy tận hưởng cuốn sách kỳ diệu này và chia sẻ nó với gia đình, bạn bè. Sức mạnh trong ngôn từ của Napoleon Hill có thể và sẽ thay đổi cuộc đời bạn.
Ba sai lầm lớn nhất của doanh nghiệp niêm yết
20/02/2013Thao túng chứng khoán bị phạt tới 2 tỷ đồng
20/02/2013Mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán đối với tổ chức vi phạm là 2 tỷ đồng và đối với cá nhân là 1 tỷ đồng.
Theo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, trong năm 2012, cơ quan này đã tổ chức 7 đoàn thanh tra, 60 đoàn kiểm tra đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán, công ty đại chúng, công ty kiểm toán và các vấn đề thao túng giá. Kết quả đã có 180 quyết định xử phạt hành chính với tổng số tiền phạt 11 tỷ đồng được ban hành.
Những thách thức khi niêm yết chứng khoán ra nước ngoài – nhìn từ thực tiễn niêm yết chứng khoán tại Singapore
18/02/2013Hiện nay, việc tận dụng các “đòn bẩy tài chính” như phát hành trái phiếu hay vay từ các tổ chức tín dụng tại Việt Nam trở nên khó khăn cho các doanh nghiệp bởi lãi suất và tiêu chuẩn cho vay cao của các ngân hàng thương mại Việt Nam, trong khi đó, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đang có chiều hướng giảm sút nghiêm trọng với mức vốn hóa thấp (chỉ chiếm gần 32,5% GDP vào tháng 6/2011)[1]. Trước bối cảnh này, việc thông qua một TTCK nước ngoài để huy động vốn là rất cần thiết và đặc biệt quan trọng để giúp khơi thông nguồn vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam. Việc niêm yết chứng khoán (NYCK) ra nước ngoài không chỉ giúp cung cấp nguồn vốn dồi dào cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết mà còn tạo điều kiện để các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao vị thế, hình ảnh doanh nghiệp, qua đó mở rộng được thị trường xuất khẩu cho chính mình và tạo nên tính cạnh tranh cho các sản phẩm Việt Nam trên trường quốc tế.
1
,844
)”>Nghị định số 14/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán (Nghị định 14)[4].1
,846
)”>Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá XI, thông qua ngày 29/6/2006.Hoàn thiện pháp luật để phát triển bền vững thị trường chứng khoán
16/02/20131. Phát triển bền vững thị trường chứng khoán ở Việt Nam
Thị trường chứng khoán Việt Nam (TTCKVN) đã bước qua tuổi 12 với nhiều thành tựu đáng kể. Từ ngày đầu mới thành lập, với chỉ hai công ty niêm yết, cho đến nay đã có trên 800 công ty niêm yết và đăng ký giao dịch. TTCKVN trở thành kênh dẫn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế với số vốn huy động trên 700.000 tỷ đồng[1]. Tuy vậy, TTCKVN đang bộc lộ nhiều tồn tại, thể hiện qua: thứ nhất, hàng hóa trên TTCKVN chưa đa dạng về thể loại và còn kém về chất lượng. Thứ hai, cơ cấu nhà đầu tư (NĐT) chưa hợp lý, chủ yếu là nhà đầu tư cá nhân tham gia TTCK. Thứ ba, mặc dù đã có tới hai Sở giao dịch chứng khoán, nhưng vẫn chưa có cơ sở pháp lý cho thị trường OTC hình thành. Thứ tư, các công ty chứng khoán (CTCK) của Việt Nam rất đông về số lượng nhưng còn yếu kém về chất lượng. Các CTCK hiện nay vẫn chủ yếu là nhà môi giới chứng khoán, không nhiều công ty có khả năng đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường hay là nhà bảo lãnh phát hành chứng khoán. Thứ năm, trên TTCKVN chưa có sự hiện diện của tổ chức định mức tín nhiệm. Thứ sáu, TTCKVN chưa bảo đảm tính minh bạch. Thứ bảy, việc quản lý, giám sát TTCKVN được thực hiện trực tiếp bởi Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) – dù trong những năm qua đạt được rất nhiều thành tựu – nhưng vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định.
Những yếu kém trên tiềm ẩn những rủi ro hệ thống và nếu không kịp thời hoàn thiện sẽ gây ra những hậu họa khôn lường cho TTCKVN và toàn bộ nền kinh tế. Khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 cho Việt Nam một bài học kinh nghiệm lớn là cần phải phát triển bền vững (PTBV) hệ thống tài chính, trong đó có thị trường chứng khoán (TTCK). Bài học đó là cần phải phát triển TTCK một cách vững chắc, không nóng vội với một tầm nhìn lâu dài theo quan điểm PTBV.
Theo định nghĩa của World Bank thì “PTBV thỏa mãn nhu cầu hiện tại mà không làm giảm khả năng thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ sau”[2]. Ban đầu, khái niệm PTBV chỉ giới hạn trong quan điểm về môi trường, nhưng cho đến nay, PTBV đã được nhìn nhận dưới ba khía cạnh là môi trường, kinh tế và chính trị – xã hội với sự tương tác cả về không gian và thời gian. PTBV TTCK “có thể được hiểu là sự phát triển của TTCK mà ở đó đảm bảo mối quan hệ tương tác lành mạnh giữa các bộ phận, khu vực của bản thân TTCK, giữa TTCK với các khu vực khác của thị trường tài chính và của cả nền kinh tế. Như vậy, sự PTBV của TTCK không phải thuần túy chỉ là duy trì một tốc độ nhanh chóng và ổn định của thị trường, mà phải là sự phát triển ở đó có sự đảm bảo tương tác lành mạnh theo thời gian và không gian”[3]. Một TTCK PTBV phải bảo đảm được sự cân bằng lành mạnh giữa các thành tố (bộ phận, chính sách, định chế trung gian,…) của TTCK và giữa TTCK với các khu vực khác của hệ thống tài chính và toàn bộ nền kinh tế. TTCK PTBV cần phải tạo được niềm tin vững chắc cho NĐT và phòng chống được rủi ro hệ thống. Ngoài ra, TTCK PTBV còn phải bảo đảm sự PTBV của môi trường[4]. Như vậy, TTCK PTBV được đánh giá theo những tiêu chí sau đây: (i) Quy mô của thị trường (mức độ vốn hóa, hệ số vòng quay, tỷ lệ giữa tổng giao dịch toàn thị trường so với GDP trong một năm). TTCK PTBV cần có sự ổn định và tăng tiến theo thời gian của ba chỉ tiêu này; (ii) Khả năng tiếp cận thị trường: các doanh nghiệp, cũng như NĐT dễ dàng nhanh chóng trao đổi vốn trên thị trường; (iii) TTCK phải hoạt động hiệu quả: tổng giá trị giao dịch qua thị trường ngày càng tăng về quy mô, an toàn với chi phí ổn định hoặc ngày càng thấp đi; (iv) Có sự cân bằng hợp lý giữa lợi ích của các chủ thể tham gia thị trường; (v) Hiệu quả trong hoạt động vận hành, quản lý, giám sát TTCK; (vi) Khả năng dự báo, ngăn ngừa và phòng chống rủi ro hệ thống; (vii) khung pháp lý hoàn chỉnh và hiệu quả điều chỉnh cao; (viii) sự tương tác, cân bằng lành mạnh và sự đồng bộ giữa các thành tố của TTCK và giữa TTCK với các khu vực khác của nền kinh tế; (viiii) TTCK phát triển ổn định.
2. Những yêu cầu đặt ra của việc hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm phát triển bền vững thị trường chứng khoán
Để PTBV TTCK thì việc hoàn thiện khung pháp lý là điều kiện tiên quyết. TTCK chỉ có thể phát triển nếu quốc gia đó ban hành được một hệ thống văn bản pháp lý đầy đủ, đồng bộ, có tính tiên liệu và hiệu lực pháp lý cao,…ổn định trong thời gian dài[5]. Theo IOSCO (Tổ chức các Ủy ban Chứng khoán quốc tế) thì mục tiêu điều chỉnh pháp luật đối với thị trường chứng khoán là: “bảo vệ nhà đầu tư; bảo đảm thị trường công bằng, hiệu quả và minh bạch; giảm thiểu rủi ro hệ thống”[6]. Vì vậy, một hệ thống pháp luật ổn định đáp ứng những chỉ tiêu dưới đây mới có thể bảo đảm cho sự PTBV của TTCK;
2.1. Pháp luật chứng khoán phải đồng bộ với toàn bộ hệ thống pháp luật của Việt Nam, tương thích với chuẩn mực quốc tế và tiếp thu những nhân tố hợp lý của pháp luật nước ngoài
Hiện nay đang có sự mâu thuẫn giữa các quy định của Luật Doanh nghiệp với các quy định của pháp luật chứng khoán. Ví dụ, theo quy định của Điều 96, Điều 115 của Luật Doanh nghiệp năm 2005, Đại hội đồng cổ đông có thẩm quyền bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị (HĐQT), Ban kiểm soát. Tuy nhiên, Điều 11 Thông tư số 121/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 26/7/2012 quy định về quản trị công ty của công ty đại chúng lại quy định, HĐQT có quyền bổ nhiệm một người làm thành viên HĐQT tạm thời. Vì vậy, cần nghiên cứu hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng bảo đảm tính đồng bộ, không mâu thuẫn, chồng chéo.
Ngày nay, pháp luật chứng khoán của các nước khá gần gũi với nhau. Đặc biệt, ISOCO đã đưa ra nhiều hướng dẫn liên quan đến các khía cạnh khác nhau của chứng khoán và TTCK, như các mục tiêu và nguyên tắc quản lý TTCK, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm, nguyên tắc điều chỉnh công cụ phái sinh… Các nguyên tắc và hướng dẫn này được nhiều nước trên thế giới vận dụng và cụ thể hóa trong pháp luật của họ. Do vậy, để TTCKVN có thể gia nhập TTCK khu vực và thế giới thuận lợi, thì pháp luật chứng khoán Việt Nam không nên quá xa lạ với các hướng dẫn của ISOCO và pháp luật của các nước.
2.2. Pháp luật chứng khoán phải là công cụ hữu hiệu bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT
NĐT là nhân vật chính trên TTCK, quyết định sự tồn tại và phát triển của TTCK. NĐT là người cấp vốn cho các doanh nghiệp. NĐT bao gồm NĐT cá nhân và NĐT có tổ chức. Trong đó “thị trường với số lượng lớn các NĐT có tổ chức có khuynh hướng khá ổn định và phân bổ nguồn lực và nguồn vốn cho các doanh nghiệp có nhu cầu hiệu quả hơn… Bằng việc tập hợp tài sản, NĐT có tổ chức có thể đạt được quy mô kinh tế nhất định, thuê được những chuyên gia đầu tư giỏi, xây dựng được chiến lược đầu tư tốt hơn và xây dựng được hệ thống quản lý rủi ro vững chắc, tất cả những thứ đó sẽ mang lại lợi nhuận cao hơn và ổn định hơn cho NĐT”[7]. Như vậy, NĐT có tổ chức là một thiết chế rất quan trọng để bảo đảm cho TTCK phát triển ổn định và hiệu quả. Tuy nhiên, NĐT trên TTCKVN mặc dù đã phát triển mạnh mẽ về mặt số lượng nhưng tỷ trọng của các NĐT có tổ chức còn rất khiêm tốn, chỉ chiếm 4% số lượng tài khoản giao dịch. Thực trạng này là do cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư của NĐT cũng như các thiết chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT chưa đầy đủ. “Nếu lợi ích hợp pháp của NĐT không đảm bảo, khả năng thu hút đầu tư vào thị trường cũng sẽ gặp nhiều khó khăn”[8]. Vì vậy pháp luật cần có cơ chế hiệu quả để thu hút được NĐT tham gia TTCK.
2.3. Pháp luật cần bảo đảm tính công bằng, hiệu quả và minh bạch của TTCK
Tính công bằng có mối liên hệ mật thiết với các cơ chế bảo vệ NĐT và các biện pháp ngăn ngừa hành vi kinh doanh không lành mạnh. Một TTCK lành mạnh khi mà các quy chế và thiết chế vận hành của nó không có sự phân biệt đối xử đối với các chủ thể tham gia thị trường. Tính hiệu quả của thị trường được thể hiện ở chỗ thông tin liên quan luôn kịp thời và rộng rãi và được phản ánh trong giá của sản phẩm chứng khoán với chi phí hợp lý. Tính minh bạch của thị trường là NĐT và các chủ thể có khả năng tiếp cận thông tin một cách dễ dàng. Cung cấp thông tin là nghĩa vụ bắt buộc của nhà phát hành, công ty chứng khoán và các chủ thể khác.
2.4. Pháp luật phải có khả năng ngăn ngừa và kiểm soát được rủi ro hệ thống
Rủi ro hệ thống được định nghĩa là “Rủi ro làm rối loạn các hoạt động tài chính mà (i) bị gây ra bởi sự suy yếu của toàn bộ hoặc một số bộ phận của hệ thống tài chính; và (ii) có nguy cơ gây ra hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế… Cơ sở của định nghĩa này là quan điểm rằng rủi ro hệ thống không chỉ gắn với sự đổ vỡ của những bộ phận đáng kể của hệ thống tài chính mà còn với những tiêu cực bên ngoài, và cụ thể là nền kinh tế vận hành trong tình trạng suy yếu”[9]. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 khởi nguồn từ sự đổ vỡ của thị trường bất động sản, sau đó lan sang thị trường ngân hàng và TTCK, ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế Mỹ là một ví dụ điển hình cho rủi ro hệ thống. Để ngăn ngừa rủi ro hệ thống có thể gây ra bởi TTCK hoặc có thể tác động đến TTCK, pháp luật cần: (1) xây dựng một cơ chế kiểm soát và dự báo sớm rủi ro hệ thống. Công tác này phải gắn liền với thẩm quyền và trách nhiệm của một cơ quan cụ thể trên cơ sở có sự phối hợp với các cơ quan quản lý chuyên ngành; (2) tăng cường phát triển các công cụ ngăn ngừa rủi ro; (3) tiêu chuẩn hóa các điều kiện gia nhập thị trường của hàng hóa và các chủ thể; (4) xây dựng và hoàn thiện các chuẩn mực hành vi của các chủ thể tham gia thị trường, nhằm ngăn ngừa và chống các hành vi kinh doanh không lành mạnh như thao túng thị trường, nội gián, lừa dối,…; (5) tiếp tục duy trì và nâng cao hợp lý các điều kiện về chỉ tiêu tài chính đối với các CTCK và chủ thể hoạt động chuyên nghiệp khác trên TTCK; (6) xây dựng cơ chế quản trị nội bộ trong các công ty đại chúng, công ty niêm yết, các ngân hàng và các định chế tài chính khác nhằm ngăn ngừa và kiểm soát rủi ro từ nội bộ các tổ chức này; (7) xây dựng cơ chế quản lý đa tầng có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý với các tổ chức tự quản trong quản lý và giám sát TTCK; (8) tạo cơ sở pháp lý cho sự hợp tác quốc tế giữa cơ quan quản lý của Việt Nam với cơ quan quản lý của nước ngoài trong việc trao đổi thông tin, phối hợp giám sát, kiểm soát thị trường.
3. Một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật bảo đảm thị trường chứng khoán phát triển bền vững
3.1. Đa dạng hóa sản phẩm trên thị trường
Một TTCK sẽ không thể phát triển nếu như sản phẩm trên thị trường nghèo nàn, đơn điệu. Vì vậy, điều kiện tiên quyết là cần phải xây dựng cơ sở pháp lý cho sự hình thành và phát triển của nhiều sản phẩm chứng khoán theo những lộ trình phù hợp.
Ngoài cổ phiếu phổ thông, chúng ta cần bổ sung thêm một số loại cổ phần ưu đãi nhằm làm đa dạng hóa sản phẩm trên thị trường cổ phiếu như: cổ phần ưu đãi tích lũy, cổ phần ưu đãi không tích lũy, cổ phần ưu đãi tham dự chia phần,… để NĐT có nhiều lựa chọn theo nhu cầu của mình. Trên cơ sở cổ phiếu, nên phát triển chứng khoán phái sinh là quyền mua cổ phần và chứng quyền. Ngoài ra, pháp luật cần quy định cụ thể hơn về tách, gộp cổ phần để tạo điều kiện thuận lợi cho nhà phát hành có công cụ để đáp ứng những đòi hỏi của thị trường trong từng thời kỳ. “Việc tách cổ phần nhằm điều chỉnh cho giá thị trường của cổ phiếu hạ xuống, còn việc gộp cổ phần nhằm điều chỉnh cho giá thị trường của cổ phiếu tăng lên”[10].
Hiện nay thị trường bất động sản đang đóng băng. Một trong những nguyên nhân là người có nhu cầu mua nhà không có nguồn tài chính. Một trong những giải pháp dài hạn là phát triển các kênh hỗ trợ vốn cho người mua nhà. Trong đó, chứng khoán hóa là một phương án hiệu quả. “Chứng khoán hóa là nghiệp vụ phổ biến trên thị trường vốn vay toàn cầu, theo đó một tổ chức bán tài sản phát sinh ra dòng tiền mặt cho một công ty khác được thành lập vì mục đích này, công ty này sẽ phát hành ra một trái phiếu. Trái phiếu này được bảo đảm bằng dòng tiền mặt phát sinh từ tài sản gốc”[11]. Trong nghiệp vụ chứng khoán hóa sẽ có hai giao dịch chính. Giao dịch thứ nhất là chủ sở hữu gốc sẽ bán đứt (chuyển nhượng quyền sở hữu) tài sản phát sinh ra dòng tiền mặt (ví dụ như quyền đòi nợ từ hợp đồng vay, quyền yêu cầu thanh toán phí li-xăng,…) cho một công ty có nghiệp vụ chứng khoán hóa (gọi tắt là SPV). Giao dịch thứ hai là SPV sẽ phát hành trái phiếu được bảo đảm bằng tài sản được chuyển nhượng, cụ thể là dòng tiền mặt phát sinh từ tài sản này. Như vậy, bằng nghiệp vụ chứng khoán hóa, một lượng vốn khổng lồ được huy động và rủi ro được phân tán.
Ngoài ra, cần phải đa dạng hóa kênh phân phối chứng khoán. Ngoài phát hành riêng lẻ và chào bán chứng khoán ra công chúng, chúng tôi đề xuất pháp luật cần bổ sung thêm các phương thức phát hành linh hoạt khác đáp ứng yêu cầu thực tế của thị trường. Ví dụ, phát hành cho NĐT có tổ chức, phương thức phát hành đăng ký linh hoạt,… Ngoài ra, cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về thị trường OTC để bảo đảm thị trường OTC là một thị trường giao dịch chính thức ở Việt Nam với những quy tắc đầy đủ và toàn diện.
3.2. Nâng cao chất lượng sản phẩm chứng khoán trên TTCK
Chất lượng của chứng khoán được thể hiện ở năng lực của nhà phát hành, độ tin cậy của chứng khoán, các cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT mà chứng khoán mang lại và những tiêu chí khác.
Hiện nay, cơ sở pháp lý để xác định giá cổ phiếu chưa đầy đủ, do vậy, việc xác định giá trị cổ phiều nhiều khi còn cảm tính và không có độ tin cậy cao. Để khắc phục điều này, chúng ta cần sớm hoàn thiện các quy định pháp luật về định giá tài sản doanh nghiệp phù hợp với các chuẩn mực quốc tế hiện hành (nhất là các hướng dẫn của Ủy ban Tiêu chuẩn thẩm định giá quốc tế). Tiếp đến, chất lượng của cổ phiếu còn được thể hiện ở quyền và lợi ích của cổ đông, đặc biệt là cổ đông thiểu số. Để bảo đảm được điều này, cần hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp liên quan đến quản trị doanh nghiệp theo hướng bảo đảm tính minh bạch, nâng cao vai trò của ban kiểm soát, xây dựng cơ chế ủy quyền (các cổ đông nhỏ ủy quyền cho một tổ chức chuyên nghiệp hoặc cổ đông lớn đại diện cho tiếng nói của mình trong công ty cổ phần).
Thị trường trái phiếu hiện nay vẫn chủ yếu là trái phiếu chính phủ. Trái phiếu doanh nghiệp chiếm một tỷ trọng rất khiêm tốn trên thị trường, chỉ chiếm 3% GDP. Một trong những nguyên nhân này là chất lượng trái phiếu doanh nghiệp chưa cao. Trước hết lãi suất và giá của trái phiếu chưa có độ tin cậy cao vì chưa được xác định trên cơ sở vững chắc. Do vậy, theo chúng tôi, cần quy định lãi suất trái phiếu được tính trên cơ sở lãi suất trái phiếu kho bạc nhà nước cộng/trừ một tham số nhất định và nhanh chóng hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc hình thành đường cong lợi suất chuẩn. Đồng thời, cần quy định điều kiện bắt buộc phải được định mức tín nhiệm đối với phát hành trái phiếu với quy mô vốn lớn hoặc có thời hạn vay dài hạn. Mặc dù là chủ nợ, nhưng thông thường, NĐT luôn luôn có vị trí bất lợi hơn nhà phát hành xuất phát từ sự bất cân xứng thông tin và thiếu cơ chế giám sát nhà phát hành sử dụng vốn. Do vậy, cần phải hoàn thiện các quy định pháp luật về minh bạch hóa thông tin và các biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT. Để bảo vệ NĐT ở Mỹ có cơ chế “cam kết kiểm soát rủi ro sự kiện”. Cam kết kiểm soát rủi ro sự kiện là bộ phận cấu thành của khế ước vay được ký kết giữa tổ chức phát hành trái phiếu với NĐT. Các cam kết kiểm soát rủi ro sự kiện ở Mỹ chủ yếu là các cam kết về lập và sử dụng quỹ dự phòng trả nợ, chia cổ tức, hạn chế vay, không cầm cố… Tổ chức phát hành có nghĩa vụ tuân thủ và báo cáo việc tuân thủ các cam kết này theo quy định của luật hợp đồng vay tín thác năm 1939 của Mỹ. Ngoài ra, pháp luật cần hoàn thiện theo hướng quy định cụ thể quyền và trách nhiệm của đại diện người sở hữu trái phiếu nhằm bảo đảm đại diện người sở hữu trái phiếu có nhiều quyền năng trong việc giám sát việc sử dụng vốn của nhà phát hành, cũng như bảo vệ quyền và lợi ích của trái chủ.
Mặt trái của nghiệp vụ chứng khoán hóa, như đã thể hiện ở cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008, là rất khủng khiếp nếu không kiểm soát chặt chẽ. Do vậy, chúng tôi cho rằng, để có thể triển khai được nghiệp vụ chứng khoán hóa, trước hết phải xây dựng cơ sở pháp lý để hình thành và cho đi vào hoạt động các SPV. SPV có tư cách pháp nhân. Tiếp đến là tiêu chuẩn hóa các tài sản được chứng khoán hóa, chủ thể được phép bán tài sản cho công ty nghiệp vụ chứng khoán hóa. Theo chúng tôi, các khoản vay dưới chuẩn[12] không được phép chứng khoán hóa, ngoài ra cần buộc nhà phát hành phải giữ lại ít nhất 5% tổng giá trị tài sản gốc như là một nguồn quỹ phòng ngừa rủi ro cho NĐT[13]. Quy trình nghiệp vụ chứng khoán hóa phải minh bạch rõ ràng, nhà phát hành phải công bố đầy đủ thông tin cho NĐT, các bên có nghĩa vụ báo cáo với các cơ quan quản lý và thực hiện các thủ tục khác sao cho cơ quan quản lý có thể tiếp cận thông tin, hoặc can thiệp kịp thời khi có dấu hiệu bất thường. Trái phiếu hình thành từ nghiệp vụ chứng khoán hóa phải được xếp hạng tín nhiệm ở mức đầu tư trở lên mới được phát hành. Ngoài ra chủ sở hữu gốc phải có nghĩa vụ thông tin đầy đủ về bản chất, tình trạng của tài sản gốc. Trong trường hợp chủ sở hữu gốc cố ý che giấu thông tin, đưa thông tin sai sự thật về tài sản gốc thì phải mua lại tài sản gốc và bồi thường thiệt hại cho các bên liên quan.
3.3. Duy trì hạn mức đầu tư và xây dựng cơ chế tự đánh giá rủi ro trong nội bộ NĐT có tổ chức
NĐT có tổ chức là các định chế không thể thiếu trên TTCK, do vậy cần cho phép các NĐT từ ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư… tham gia vào TTCK. Tuy nhiên, để hạn chế rủi ro cho các tổ chức này và ngăn chặn rủi ro lây lan sang các chủ thể khác, cần tiếp tục duy trì và hoàn thiện các quy định về hạn mức đầu tư vào TTCK của các tổ chức này. Ngoài ra, các NĐT có tổ chức phải tự xây dựng bộ máy hoặc cơ chế ngăn ngừa rủi ro bao gồm cả cơ chế tự soát xét thông tin liên quan đến chứng khoán mục tiêu mà không được lệ thuộc hoàn toàn vào thông tin, tư vấn của bên thứ ba.
3.4. Hình thành và phát triển các công cụ phòng ngừa rủi ro
Các công cụ phòng ngừa rủi ro phổ biến là hợp đồng quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai (hợp đồng giao sau), hợp đồng hoán đổi rủi ro vỡ nợ và các chứng khoán tổng hợp. Các công cụ này được sử dụng để phòng ngừa rủi ro giá cả. Các công cụ phái sinh có thể được giao dịch trên TTCK và chủ yếu là trên thị trường OTC. Trong đó, hợp đồng quyền chọn và hợp đồng tương lai rất phổ biến trên thị trường. Trong giai đoạn đầu, Việt Nam nên tập trung xây dựng và phát triển hai công cụ này.
“Quyền chọn là một hợp đồng cho phép người mua quyền được phép lựa chọn việc thực hiện hay không thực hiện việc mua hay bán một số lượng chứng khoán nhất định trước hoặc trong một khoảng thời gian xác định với một mức giá được xác định trước. Các hàng hóa cơ sở của hợp đồng quyền chọn có thể là cổ phiếu, trái phiếu, ngoại tệ, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hay chỉ số chứng khoán…”[14]. Quyền chọn gồm có quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán. Trong hợp đồng quyền chọn người mua quyền chọn có nghĩa vụ trả phí quyền chọn cho người bán quyền chọn. Phí quyền chọn là mức giới hạn tối đa thiệt hại của người mua quyền chọn. Nghĩa là, giả sử nếu người mua quyền chọn mua xét thấy giá chứng khoán cơ sở tại thời điểm thực hiện quyền mua giảm rất nhiều so với giá thực hiện quyền chọn nên không thực hiện quyền chọn thì sẽ mất phí quyền chọn. Người bán quyền chọn phải thực hiện nghĩa vụ bán hàng hoặc mua hàng tùy thuộc vào loại hợp đồng quyền chọn khi người mua quyền chọn thực hiện quyền chọn.
“Hợp đồng tương lai là một hợp đồng mua hoặc bán hàng hóa được giao trong tương lai mà (1) theo giá tại thời điểm giao kết hợp đồng; (2) các bên có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng bao gồm giao hàng và thanh toán theo giá xác định; (3) được thiết kế để chấp nhận hoặc chuyển rủi ro; (4) được thanh toán bù trừ thông qua tổ chức thanh toán bù trừ trung gian; (5) hợp đồng được hoàn thành bằng việc giao hàng và thanh toán thực tế hoặc cân đối lời lỗ trước thời điểm giao hàng”[15]. Không phải hàng hóa nào cũng có thể trở thành hàng hóa cơ sở cho hợp đồng tương lai. Chỉ có những hàng hóa thỏa mãn những điều kiện luật định mới được giao dịch theo hợp đồng tương lai, thông thường là các hàng hóa có tính thanh khoản cao như cổ phiếu phổ thông, trái phiếu chính phủ, chứng chỉ quỹ,…và khối lượng giao dịch của chứng khoán cơ sở phải đạt được mức tối thiểu nhất định. Bên mua và bên bán trong hợp đồng tương lai buộc phải đóng tiền bảo chứng (tiền ký quỹ) vào tổ chức thanh toán bù trừ. Nếu xảy ra lỗ cho một hợp đồng tương lai thì tổ chức thanh toán bù trừ sẽ chuyển tiền từ tài khoản bảo chứng để bù đáp khoản lỗ, nếu số dư tiền bảo chứng không đủ đạt mức tối thiểu thì khách hàng phải nộp bổ sung cho đủ. Nếu một hợp đồng tương lai có lãi, số tiền lãi sẽ được chuyển vào tài khoản bảo chứng của khách hàng. Khách hàng có quyền rút số tiền này ra nhưng phải bảo đảm mức bảo chứng tối thiểu. Hợp đồng tương lai có thể chấm dứt khi đáo hạn và các bên hoàn thành nghĩa vụ giao hàng và thanh toán trên thực tế hoặc trước thời điểm giao hàng, một vị thế mở được đóng lại bằng cách ký một hợp đồng ở vị thế ngược lại. Trong trường hợp này, số tiền bảo chứng còn lại không còn cần thiết và khách hàng có thể rút lại số tiền này.
Nội dung của hợp đồng quyền chọn và hợp đồng tương lai phải phù hợp với những quy tắc kinh doanh chung về loại hàng hóa cơ sở nếu không thị trường hàng hóa cơ sở có nguy cơ bị bóp méo. Vì vậy, pháp luật về chứng khoán phái sinh cần phải quy định rõ nguyên tắc này và trao cho cơ quan quản lý hoặc sở giao dịch có quyền buộc các bên phải sửa đổi nội dung của hợp đồng hoặc phải giao kết hợp đồng theo mẫu chuẩn do cơ quản lý hoặc sở giao dịch phát hành. Tùy từng loại hợp đồng (quyền chọn hay tương lai) mà phải có những nội dung bắt buộc theo luật định. Các hợp đồng này phải phản ánh được hoạt động của thị trường cơ sở và không được có các điều khoản ngăn cản việc giao hàng và thanh toán hoặc các điều khoản trái với luật hoặc tập quán kinh doanh thông thường liên quan đến hàng hóa cơ sở. Ví dụ, giá của hợp đồng tương lai tại thời điểm đáo hạn phải phản ánh được giá thị trường của hàng hóa cơ sở.
3.5. Nâng cao năng lực và trách nhiệm của các CTCK
CTCK là một trong những trụ cột chính của TTCK, là một định chế tài chính trung gian kết nối NĐT với các chủ thể khác trên thị trường. Pháp luật chứng khoán Việt Nam có khá đầy đủ các quy định điểu chỉnh tổ chức và hoạt động của CTCK. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động của các CTCK trên thị trường đã bộc lộ nhiều vấn đề trong tổ chức và hoạt động của CTCK, không những gây thiệt hại trực tiếp cho NĐT mà còn có nguy cơ gây ra rủi ro hệ thống. Do vậy, việc hoàn thiện pháp luật theo hướng nâng cao năng lực và trách nhiệm của CTCK là rất cần thiết.
Thứ nhất, cần nâng mức vốn pháp định của CTCK: Hiện nay mức vốn pháp định của CTCK được quy định tại Điều 18 Nghị định số 14/2007/NĐ-CP ngày 19/1/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán: Môi giới chứng khoán mức vốn pháp định là 25 tỷ đồng; tự doanh chứng khoán là 100 tỷ đồng; bảo lãnh phát hành chứng khoán là 165 tỷ đồng và tư vấn đầu tư chứng khoán là 10 tỷ đồng. Mức vốn pháp định quá thấp dẫn đến một thực trạng là khi TTCK gặp khó khăn, một loạt các CTCK làm ăn thua lỗ và có nguy cơ lâm vào tình trạng phá sản. “Theo công bố của UBCKNN, tính đến hết năm 2011, cả nước có 65/105 CTCK báo lỗ, 71/105 CTCK có lỗ lũy kế. Chủ tịch UBCKNN cho biết, hoạt động của các CTCK đạt hiệu quả kém, chỉ tiêu an toàn tài chính thấp, do đó, nếu không thực hiện tái cấu trúc triệt để (trong đó mấu chốt là tái cấu trúc hoạt động tài chính) thì các CTCK – trụ cột chính của TTCK – sẽ không thể trụ vững và thực hiện được vai trò, vị trí, nhiệm vụ được giao”[16]. Như vậy, việc tăng mức vốn pháp định là bắt buộc nhằm nâng cao năng lực tài chính của CTCK, đặc biệt đối với CTCK tự doanh và thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành. Theo kinh nghiệm của Trung Quốc, CTCK đa năng phải có mức vốn đăng ký thấp nhất là 500 triệu nhân dân tệ, công ty môi giới chứng khoán phải có mức vốn đăng ký thấp nhất là 50 triệu nhân dân tệ.
Thứ hai, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động môi giới của CTCK: Hoạt động môi giới chứng khoán là hoạt động chủ yếu của các CTCK của Việt Nam. Hoạt động môi giới cũng được hầu hết các nước trên thế giới quan tâm và có những quy định rất chi tiết tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho nghiệp vụ này. “Tuy nhiên những quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động môi giới chứng khoán còn khá mờ nhạt và quá ít, thực tế chưa tạo được một cơ sở pháp lý chung nhất cho hoạt động môi giới phát triển”[17]. Thực trạng hoạt động môi giới chứng khoán hiện nay cho thấy, các CTCK xâm phạm quyền và lợi ích của NĐT là rất phổ biến. “Các sai phạm chủ yếu mà NĐT hay tố nhân viên hành nghề chứng khoán là tự ý sử dụng tiền và chứng khoán của khách hàng, gây thua lỗ nghiêm trọng cho khách; tự ý rút tiền, chuyển chứng khoán từ tài khoản này sang tài khoản khác; tự ý dùng tài sản của khách hàng để cầm cố, thế chấp vay tiền; tư vấn cho khách một đằng, hành động một nẻo… Khi vấn đề bung vỡ (NĐT có đơn kiện đến cơ quan chức năng và gửi báo chí), các CTCK nơi sử dụng lao động thường có thái độ đổ hết lỗi cho nhân viên, quá trình xử lý vì thế thường nghiêng về phần thiệt cho NĐT là chính”[18]. Sở dĩ xảy ra thực trạng này cũng xuất phát từ việc chưa có bộ quy tắc hành nghề kinh doanh chứng khoán với những chế tài đủ mạnh để ngăn ngừa những hành vi méo mó nêu trên. Do vậy, theo chúng tôi, cần sớm ban hành bộ quy tắc hành nghề kinh doanh chứng khoán là cơ sở pháp lý cho việc điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán, trong đó phân định rõ trách nhiệm của CTCK, người môi giới chứng khoán, nhân viên của CTCK. Đồng thời, cần phải tách bạch tài khoản của khách hàng để tránh tình trạng lạm dụng tài khoản của khách hàng để trục lợi. “Các cơ quan quản lý cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này, theo đó yêu cầu CTCK quản lý tách bạch từng tài khoản của khách hàng, tạo cơ sở bảo vệ tốt hơn nữa quyền và lợi ích của NĐT chứng khoán.”[19] Ngoài ra, các quy định của pháp luật về việc nhận lệnh và chuyển lệnh trên thị trường, mở tài khoản giao dịch và thời gian thanh toán, về phí và lệ phí trong hoạt động môi giới chứng khoán cần phải được tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện.
Thứ ba, hoàn thiện các quy định của pháp luật về tự doanh chứng khoán. Hoạt động tự doanh chứng khoán cũng là một nghiệp vụ quan trọng của CTCK. Các công ty tự doanh chứng khoán sẽ đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường giúp cho chứng khoán có tính thanh khoản cao. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động tự doanh của CTCK còn rất hạn chế. Để phát triển hoạt động tự doanh trên thị trường, ngoài việc phải tăng vốn pháp định như đã nêu ở trên, cần phải giải quyết được những vấn đề sau: Tách biệt rõ ràng giữa nghiệp vụ môi giới chứng khoán và nghiệp vụ tự doanh chứng khoán; pháp luật cần quy định rõ ràng và cụ thể những chuẩn mực ứng xử của CTCK hoạt động tự doanh như: nghĩa vụ ưu tiên khách hàng; không được xung đột lợi ích với khách hàng,…Đồng thời cần phải có những chế tài nghiêm khắc và cụ thể xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt động tự doanh.
Ngoài ra, pháp luật liên quan đến các nghiệp vụ bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán của CTCK cũng cần được tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện nhằm bảo đảm nâng cao hiệu quả và trách nhiệm của CTCK, bảo đảm cho TTCK PTBV.
3.6. Thành lập tổ chức định mức tín nhiệm ở Việt Nam
Theo định nghĩa của ISOCO thì: “Định mức tín nhiệm là sự đánh giá được hiển thị bằng hệ thống hệ số tín nhiệm đã được thiết lập và xác định về khả năng thanh toán nợ của một chủ thể, một khoản nợ, một chứng khoán nợ hoặc của người phát hành các nghĩa vụ này”[20]. Với quy tắc “nhà phát hành thanh toán” và “công khai kết quả định mức tín nhiệm”, NĐT có thể đánh giá được khả năng trả nợ của người đi vay hoặc rủi ro tín dụng của chứng khoán nợ mà ra quyết định đầu tư mà không phải mất chi phí. Xác định được hệ số định mức tín nhiệm còn giúp nhà phát hành xác định được mức lãi suất vay hợp lý, vừa phản ánh được mức độ rủi ro, vừa đảm bảo khả năng thanh toán nợ của nhà phát hành. Vì vậy, để thị trường trái phiếu Việt Nam phát triển, việc thành lập và cho đi vào hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm là điều kiện tiên quyết.
Cho đến nay, Việt Nam chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào quy định một cách chi tiết về tổ chức và hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm. Do vậy, theo chúng tôi, cần nghiên cứu và sớm ban hành một văn bản điều chỉnh về tổ chức hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm theo hướng: (1) Tổ chức định mức tín nhiệm có tư cách pháp nhân và được tổ chức theo loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần; (2) Khống chế tỷ lệ nắm giữ cổ phần có quyền biểu quyết hoặc tỷ lệ vốn góp trong tổ chức định mức tín nhiệm; (3) Quy định cụ thể về điều kiện thành lập tổ chức định mức tín nhiệm, chú trọng đến điều kiện vốn pháp định và nhân lực; (4) Có cơ chế kiểm soát chặt chẽ nhằm ngăn ngừa xung đột lợi ích phát sinh từ hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm. Ví dụ, cấm hoặc kiểm soát mối quan hệ kinh tế giữa tổ chức định mức tín nhiệm và/hoặc người có liên quan của tổ chức này với chủ thể được định mức tín nhiệm và/hoặc bên có liên quan của chủ thể này; (5) công khai, minh bạch về phương pháp, quy trình, kết quả định mức tín nhiệm; (6) tổ chức định mức tín nhiệm phải chịu trách nhiệm về các hành vi vi phạm và phải bồi thường thiệt hại cho NĐT. Cần phải quy định chặt chẽ về tổ chức và hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm nhằm kiểm soát và hạn chế những rủi ro mà tổ chức này có thể gây ra cho NĐT và toàn bộ thị trường. “Hệ số xếp hạng tín nhiệm không chính xác gây ra rủi ro hệ thống cho thị trường tài chính của Mỹ và là một trong những nguyên nhân chính gây ra khủng hoảng tài chính ở Mỹ”[21].
3.7. Nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý, giám sát thị trường
Pháp luật cần trao cho cơ quan quản lý các công cụ quản lý hiệu quả và đặc thù, như tiêu chuẩn hóa thông tin thu thập, quyền thu thập thông tin từ bất kỳ bên liên quan nào, nghĩa vụ báo cáo ngay khi thực hiện giao dịch, hệ thống cập nhật thông tin tự động, quyền tiến hành kiểm tra, thanh tra khi phát hiện giao dịch có bất thường. Cơ quan quản lý có quyền can thiệp hoặc ngăn chặn các giao dịch hoặc hành vi gây phương hại đến thị trường. Ví dụ trong quản lý thị trường phái sinh, cơ quan quản lý có quyền: áp đặt hạn mức dao động giá, yêu cầu tính thêm tiền bảo chứng, thanh khoản hoặc chuyển nhượng vị thế mở, đình chỉ hoặc rút gọn lại giao dịch,… Cơ quan quản lý có quyền áp dụng các biện pháp chế tài như cảnh cáo, khiển trách, buộc trả lại các khoản thu bất chính, phạt vi phạm, áp đặt điều kiện giao dịch, áp đặt trình trạng nhất định, đình chỉ giao dịch, cấm giao dịch, đình chỉ hoạt động, thu hồi giấy phép, đề nghị áp dụng các biện pháp chế tài hình sự trong trường hợp nghiêm trọng. Pháp luật cũng cần cho phép cơ quan quản lý được quyền khởi kiện một chủ thể nào đó ra tòa để buộc phải chịu trách nhiệm dân sự. Như vậy, pháp luật cần quy định chi tiết và đầy đủ các biện pháp chế tài là công cụ hữu hiệu để cơ quan quản lý sử dụng quản lý và giám sát thị trường. Tuy nhiên, nếu chỉ đơn thuần sử dụng các biện pháp cưỡng chế nhiều khi chưa chắc đã bảo đảm hiệu quả quản lý. Do vậy, chúng tôi đề xuất nên đưa thêm cơ chế cảnh báo sớm, tức là cơ quan quản lý sẽ cảnh báo cho đối tượng quản lý về những sai phạm, rủi ro hoặc vấn đề khác để đối tượng quản lý điều chỉnh, khắc phục. Cơ quan quản lý cũng có quyền và nghĩa vụ cảnh báo sớm cho toàn bộ thị trường và áp dụng các biện pháp cần thiết để ngăn ngừa và kiểm soát rủi ro. Ngoài ra, cần bổ sung thêm cơ chế tham vấn và đồng thuận, theo cơ chế này cơ quan quản lý và đối tượng quản lý sẽ cũng trao đổi và thống nhất các biện pháp mà đối tượng quản lý phải thực hiện nhằm tránh, hạn chế hoặc kiểm soát rủi ro.
Ngoài ra, để hỗ trợ cho hoạt động quản lý, giám sát TTCK, cần xây dựng cơ chế pháp lý để các tổ chức tự quản bao gồm sở giao dịch chứng khoán, hiệp hội ngành nghề chứng khoán, trung tâm lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán tham gia sâu vào hoạt động quản lý và giám sát TTCK. Theo đó, các tổ chức tự quản này có quyền được ban hành quy chế điều chỉnh hoạt động của thành viên, giám sát hoạt động của các thành viên tham gia thị trường, điều tra các hành vi bất thường, và áp dụng một số biện pháp chế tài dưới sự giám sát của UBCKNN./.
[1]Ngọc Quang, TTCK đã hết mang tiếng là “sòng bạc”, http://sggp.org.vn/taichinhnganhangchungkhoan /2012/7/293537/, truy cập ngày 10/7/2012.
[2]http://www.worldbank.org/depweb/english/sd.html, truy cập ngày 29/10/2012.
[3]Đinh Văn Sơn, PTBV thị trường chứng khoán Việt Nam, Nxb. Tài chính, năm 2009, tr. 113, 114.
[4]Đinh Văn Sơn, PTBV thị trường chứng khoán Việt Nam, Sđd., tr. 115.
[5]Đinh Văn Sơn, PTBV thị trường chứng khoán Việt Nam, Sđd., tr. 123.
[6]Objectives and Principles of Securities Regulation, International Organization of Securities Commissions, June 2010, tr.3.
[7]Development and Regulation of Institutional Investors in Emerging Markets, Emerging Markets Committee of the International Organization of Securities Comissions, June 2012, tr.iv
[8]TS. Phạm Thị Giang Thu, Luật chứng khoán với việc mở rộng cơ hội đầu tư và khuyến khích đầu tư, Tạp chí Luật học số 8/2006, tr.52
[9]Sebastian Schich and Byoung – Hwan Kim, Systemic Financial Crises: How to fund resolution, OECD Journal: Financial Market Trends, volume 2010, issue 2, tr.4
[10]Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Ngân hàng, PGS,TS. Bùi Thị Kim Yến-TS. Thân Thị Thu Thủy, Thị trường chứng khoán, Nxb. Thống kê, năm 2009, tr.84
[11]Moorad Choudlhry, Corporate bonds and structured financial products, Elsevier Butterworth Heineman, 2004, tr. 296.
[12]Theo tiêu chuẩn của hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ, vay dưới chuẩn được hiểu là “(1) Có 2 hoặc nhiều lần chậm thanh toán 30 ngày trong 12 tháng gần nhất hoặc một hoặc nhiều lần chậm thanh toán 60 ngày trong 24 tháng gần nhất; (2) bị phán quyết bởi tòa án hoặc bị xử lý tài sản bảo đảm trước đó 24 tháng; (3) bị phá sản trong 5 năm gần nhất; (4) có chứng cứ về khả năng vỡ nợ cao, ví dụ xếp hạng tín dụng dưới 660 điểm theo thang điểm của FICO; (5) tỷ lệ nợ trên thu nhập trên 50%”. (Interagency “Expanded guidance for subprime lending programs, (31/12/2001), at 3 hoặc xem thêm United States Senate – Permanent Subcommittee on investigations – Committee on Homeland security and governmental affairs – Wall Street and the Financial crisis: Anatomy of a financial collapse – April 13, 2011, source: http://www.hsgac.senate.gov, tr.19).
[13]Ở Châu Âu, quy định về khoản giữ lại để ngăn ngừa rủi ro có hiệu lực tháng 01/2011 theo Điều 122a của Chỉ thị về nhu cầu vốn (CRD II) và yêu cầu nhà phát hành giữ lại một tỷ phần ròng không thấp hơn 5% của tài sản cơ sở. (Xem Hans J. Blommestein, Ahmet Keskinler and Carrick Lucas, Outlook for the Securitisation Market, OECD Journal: Financial Market Trends, Volume 2011 – Issue 1, OECD 2011, tr.9)
[14]Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Ngân hàng, PGS,TS. Bùi Thị Kim Yến- TS. Thân Thị Thu Thủy, Thị trường chứng khoán, Nxb. Thống kê, năm 2009, tr.212.
[15]Principles for the Regulation and Supervision of Commodity Derivatives Markets – Final Report, Technical Committee of International Organisation of Securities Commission, September 2011
[16]Báo Nhân dân điện tử, Tái cấu trúc thị trường chứng khoán theo lộ trình phù hợp, http://www.nhandan.org.vn/cmlink/nhandandientu/thoisu/kinh-te/kinh-t-tin-chung/tai-c-u-truc-th-tr-ng-ch-ng-khoan-theo-l-trinh-phu-h-p-1.339330, cập nhật ngày 20/3/2012
[17]PGS,TS. Lê Thị Thu Thủy (chủ biên), Pháp luật về công ty chứng khoán ở Việt Nam, Nxb. Tư pháp, năm 2011, tr. 222
[18]Tường Vi, Nhân sự chứng khoán 50% không chứng chỉ hành nghề, tại sao?, http://tinnhanhchungkhoan.vn/ GL/N/CIFCCA/nhan-su-chung-khoan-50–khong-chung-chi-hanh-nghe-tai-sao.html, cập nhật ngày 2010
[19]PGS,TS. Lê Thị Thu Thủy (chủ biên), Pháp luật về công ty chứng khoán ở Việt Nam, Nxb. Tư pháp, năm 2011, tr. 232.
[20]Code of Conduct Fundamentals for Credit Rating Agencies, the Technical Committee of IOSCO, 2008, tr. 3.
[21]Đỗ Minh Tuấn, Một số vấn đề về thực tiễn chứng khoán hóa các khoản vay thế chấp ở Mỹ, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 06/2012, tr. 13.
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu lập pháp
Công ty chứng khoán: Lỗ khủng, nợ xấu
29/01/2013Tới thời điểm này đã có 40 CTCK công bố kết quả kinh doanh đầy đủ năm 2012. Đáng chú ý 2/3 trong số này báo cáo có lãi trong năm 2012 và các CTCK tên tuổi đang trở lại dẫn đầu lợi nhuận trên thị trường. Tuy nhiên, không vì vậy mà gam màu sáng sẽ là gam màu chủ đạo trong bức tranh toàn cảnh.
Lỗ vẫn “khủng”
Trong số các CTCK đã công bố BCTC, CTCK Sacombank (SBS) dẫn đầu với mức lỗ 128 tỉ đồng. SBS có thể phải đối mặt với việc hủy niêm yết bắt buộc khi mà Cty thông báo vốn chủ sở hữu âm hơn 245 tỉ đồng, lỗ lũy kế đến hết năm 2012 lên đến 1.761 tỉ đồng, trong khi vốn điều lệ chỉ có 1.266 tỉ đồng. Năm 2011, Cty đã lỗ 610 tỉ đồng. Một CTCK khác cũng lỗ lớn là Phú Hưng (PHS). Trong năm 2012, PHS lỗ 101,5 tỉ đồng, tính chung cả 2 năm gần nhất, PHS lỗ 148 tỉ đồng.
Các CTCK khác có mức lỗ thấp hơn. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là một số Cty có lỗ lũy kế tăng nhanh, vượt vốn điều lệ của Cty. Trường hợp của CTCK Quốc tế (VISE), Cty báo lỗ gần 23 tỉ đồng, thấp hơn khoản lỗ gần 53 tỉ đồng ở năm 2011 nhưng mức lỗ lũy kế đến hết năm 2012 là hơn 73 tỉ đồng. Lỗ nặng và “bê bối” còn phải kể đến trường hợp CTCK Tràng An (TAS). TAS chưa báo cáo kết quả kinh doanh quý IV nhưng Cty này lỗ 7,4 tỉ đồng 9 tháng đầu năm. Hay như CTCK Âu Việt (AVS) báo lỗ hơn 10 tỉ đồng, lỗ lũy kế đến hết năm là hơn 151 tỉ đồng. Đến nay, AVS đã ngừng hẳn các nghiệp vụ kinh doanh và đang chờ ĐHCĐ thông qua quyết định giải thể Cty.
Gian lận, bán khống
UBCKNN vừa công bố quyết định xử phạt 320 triệu đồng đối với CTCK Golden Bridge (GBS) do có nhiều vi phạm như cho khách hàng đặt lệnh mua CK khi không có đủ tiền theo quy định pháp luật; bán khống CK; không thực hiện nghĩa vụ báo cáo tỉ lệ an toàn tài chính của CTCK… Nóng nhất về sai phạm của CTCK trong tháng đầu năm 2013 có thể kể đến vụ việc ông Lê Hồ Khôi, TGĐ CTCK Tràng An (TAS) bị khởi tố và bắt tạm giam trong vài ngày qua cũng làm lộ ra một loạt các sai phạm tại Cty này. Theo đó, TAS đã cho NĐT mua CK khi không đủ tiền và đã bị Trung tâm lưu ký ngừng cung cấp các dịch vụ liên quan, HoSE ngừng giao dịch, đưa TAS vào diện chấm dứt tư cách thành viên bắt buộc.
Thanh tra UBCKNN mới đây cũng cho biết sẽ tiếp tục thanh tra về bán khống từ tuần này sau khi nhận thấy dấu hiệu hiện tượng bán khống xuất hiện trong hơn một tuần trở lại đây. Lợi dụng thời điểm thị trường tăng điểm và thanh khoản được cải thiện, một số CP đã bị bán khống với sự trợ giúp của một số tổ chức và cá nhân. Một số CTCK xác nhận, bán khống đã quay lại dưới các hình thức tinh vi hơn nhờ các nhóm khách hàng được nối ráp với nhau thông qua các môi giới. UBCK cảnh báo sẵn sàng áp dụng biện pháp nặng là đình chỉ hoạt động môi giới của CTCK nếu phát hiện bán khống có sự tiếp tay của nhân viên các Cty này bất kể quy mô bán khống ở mức độ nào.
Đau đầu với nợ xấu
Trong khi đó, nợ xấu đang là chuyện đau đầu không chỉ của hệ thống NH mà còn của các CTCK. Theo thống kê của NHNN, tính đến ngày 30-9-2012 nợ xấu của toàn ngành NH là 200.000 tỉ đồng, chiếm 8,82% tổng dư nợ; trong đó CK đóng góp vào tổng số nợ xấu này khoảng 12.000 tỉ đồng.
TGĐ một CTCK tại TPHCM thừa nhận, bản thân các CTCK nhỏ rất khó thực hiện các nghiệp vụ margin (cho NĐT vay thêm tiền để đầu tư tiếp vào CK), hợp tác đầu tư hay repo, vì yếu về tài chính. Các hoạt động này diễn ra chủ yếu ở các Cty lớn, đặc biệt là các CTCK con của các NH. Nên khi thị trường suy giảm, giao dịch èo uột, khách hàng khó trả nợ thì không chỉ bản thân CTCK gặp nguy mà còn kéo theo những “nhà tài trợ” phía sau là các NH, quỹ đầu tư… Bên cạnh đó, việc nhận diện khoản nào là nợ xấu giữa CTCK và khách hàng không hề đơn giản. Những điều này cho thấy các CTCK đang phải đối mặt với nhiều vấn đề trong việc thu hồi nợ xấu , bảo đảm tài chính trong thời gian tới.